e magazine
17:49 | Thứ ba, 13/12/2022
Bài 1: Định hướng phát triển Bảo hiểm bắt buộc TNLĐ và BNN ở nước ta

17:49 | Thứ ba, 13/12/2022

Nghiên cứu hoàn thiện chính sách Bảo hiểm bắt buộc tai nạn lao động (TNLĐ) và bệnh nghề nghiệp (BNN) nước ta đến 2035 là vấn đề rất mới trong lĩnh vực ATVSLĐ, cần được nghiên cứu trong tổng thể các chính sách bảo hiểm nói chung.

Định hướng phát triển Bảo hiểm bắt buộc TNLĐ và BNN ở nước ta

Nghiên cứu hoàn thiện chính sách Bảo hiểm bắt buộc TNLĐ và BNN nước ta đến 2035 là vấn đề rất mới trong lĩnh vực ATVSLĐ cần được nghiên cứu trong tổng thể các chính sách bảo hiểm nói chung. Cụ thể gồm: Định hướng phát triển Bảo hiểm bắt buộc TNLĐ và BNN ở nước ta; bổ sung, hoàn thiện căn cứ và cơ sở khoa học của chính sách Bảo hiểm TNLĐ và BNN trong nền kinh tế thị trường có định hướng; hoàn thiện và thống nhất hóa cơ sở khoa học đánh giá điều kiện lao động - Xác định mức độ rủi ro nghề nghiệp (RRNN) để xây dựng chính sách thu phí bảo hiểm bắt buộc.

Định hướng phát triển Bảo hiểm bắt buộc TNLĐ và BNN ở nước ta
Lãnh đạo LĐLĐ tỉnh Bắc Ninh thăm hỏi, trao hỗ trợ cho công nhân trong vụ nổ tại Công ty Seojin Auto. Ảnh: BÁO LAO ĐỘNG

Định hướng phát triển Bảo hiểm bắt buộc TNLĐ và BNN ở nước ta

Trước hết là cải cách hệ thống bồi thường cho NLĐ làm việc trong điều kiện độc hại

Như chúng ta đã biết, một trong những chức năng quan trọng cốt lõi của hệ thống bảo hiểm TNLĐ và BNN là đền bù những thiệt hại đã xảy ra đối với NLĐ. Do vậy, thiệt hại sức khỏe của NLĐ làm việc trong điều kiện lao động độc hại cần phải được chú trọng giảm thiểu. Theo kinh nghiệm của Liên minh châu Âu (EU), có bốn lĩnh vực cần lưu ý là: Phòng ngừa và kiểm soát việc bảo vệ sức khỏe của NLĐ; phục hồi khả năng làm việc của NLĐ sau khi bị TNLĐ và/hoặc BNN; thực hiện các biện pháp thay đổi xã hội và nhân khẩu học; tăng cường phối hợp giữa các chiến lược sức khỏe và an toàn; phát triển chiến lược việc làm và sức khỏe cộng đồng.

Từ góc độ nào đó, hệ thống bồi thường - như một hình thức "hối lộ" của NSDLĐ sau khi họ đã gây thiệt hại cho sức khỏe của NLĐ. Hệ thống đền bù được thiết kế để thực hiện các chức năng:

a) Bảo vệ NLĐ bằng một yếu tố tạm thời - giảm giờ làm việc, tuần làm việc ngắn hơn, nghỉ phép hàng năm kéo dài và giảm thời gian phục vụ dưới hình thức lương hưu sớm từ 5, 10 năm trở lên;

b) Bồi thường mức tăng chi phí của NLĐ cho thực phẩm, điều trị, phục hồi chức năng và nghỉ ngơi (chức năng sinh sản) dưới hình thức tăng lương;

c) Để kích thích và thu hút lao động vào các ngành công nghiệp có mức độ rủi ro nghề nghiệp cao: làm việc trên các công trình lắp đặt và xây dựng nhà cao tầng, công việc dưới nước, trong điều kiện tự nhiên và khí hậu khắc nghiệt của miền núi, biên giới, hải đảo, ...

Các phương pháp tính toán phân loại độc hại và sự kết hợp khác nhau của các yếu tố rủi ro nghề nghiệp cho phép xác định được mục tiêu: giảm tác động của quá trình lao động sản xuất thông qua hệ thống bồi thường, dựa trên các đánh giá của chuyên gia và thống kê về tỷ lệ mắc bệnh liên quan đến nghề nghiệp, tuổi thọ, thương tích nghề nghiệp, doanh thu nhân viên, khó khăn trong việc tuyển dụng nhân sự cho công việc thời vụ và công việc có cường độ lao động tăng.

Quy mô bồi thường cho NLĐ làm việc ở điều kiện độc hại rất lớn. Do đó, ước tính của chuyên gia cho thấy tổng số chi phí để tài trợ cho lương hưu ưu đãi, thanh toán bổ sung cho tiền lương, nghỉ phép bổ sung, cũng như chi phí bồi thường thiệt hại cá nhân ngày nay trung bình là 6 đến 8% quỹ tiền lương trong ngành. Đối với một số ngành và khu vực riêng lẻ từ 20 đến 40% trở lên, nghĩa là nó vượt quá các vấn đề an sinh xã hội hiện có khác về quy mô.

Việc bồi thường thiệt hại về sức khỏe và mức độ mất năng lực chuyên môn trung bình với sự trợ giúp của Bảo hiểm TNLĐ và BNN chỉ được thực hiện trung bình một trong số 20 trường hợp xảy ra. Một thực tế là các doanh nghiệp đang coi nhẹ việc đánh giá khách quan, giảm thiểu và ngăn chặn rủi ro nghề nghiệp (RRNN), chưa thực sự hệu quả trong các biện pháp phòng ngừa TNLĐ và chăm sóc y tế, sức khỏe NLĐ.

Mức lương thấp chủ yếu là theo quy định tối thiểu vùng thường dẫn đến thực tế là NLĐ phải làm thêm giờ và thường thì không tuân thủ các yêu cầu an toàn lao động. Chính sách bảo hiểm TNLĐ và BNN hiện nay chưa đủ tạo động lực để các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp hiệu quả đảm bảo điều kiện làm việc an toàn và hợp vệ sinh. Do đó hiện đại hóa hệ thống quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp dựa trên việc đánh giá và quản lý rủi ro nghề nghiệp ở nước ta là một nhiệm vụ khó khăn nhưng rất cần thiết.

Để hình thành một hệ thống nhà nước đánh giá và quản lý RRNN, cần thực hiện một số chương trình chính: Đánh giá rủi ro nghề nghiệp cho toàn bộ thời gian hoạt động lao động và cuộc sống sau lao động của NLĐ được bảo hiểm; trong phạm vi đánh giá hậu quả của sự kiện RRNN phải xem xét tất cả các loại vi phạm quy định hoặc/và khiếm khuyết trong quy trình lao động an toàn, hợp vệ sinh; để xác định biểu giá bảo hiểm, có tính đến toàn bộ thiệt hại thực sự cho Nhà nước và xã hội, cần tới hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả của các cơ quan quản lý, cơ quan chuyên môn có chứng nhận.

Kết quả áp dụng các biện pháp này, giá trị của biểu giá Bảo hiểm TNLĐ và BNN thực tế trung bình sẽ không thấp (0,5% quỹ tiền lương) như hiện nay, mà sẽ vào khoảng 8 đến 10 % quỹ tiền lương. Đây sẽ là một cơ chế hiệu quả để NSDLĐ có động lực giảm RRNN và hiện đại hóa sản xuất.

Những thay đổi đáng kể trong cấu trúc xã hội đã diễn ra trong những năm gần đây, sự hình thành quan hệ thị trường, bao gồm cả trong lĩnh vực lao động, đòi hỏi phải sửa đổi triệt để toàn bộ hệ thống bồi thường cho NLĐ làm việc tại nơi làm việc và trong các ngành có điều kiện làm việc ô nhiễm, không hợp vệ sinh, xác định được vai trò của chính quyền địa phương trong việc điều chỉnh hệ thống này.

Cải thiện điều kiện làm việc và cải thiện sự cân bằng giữa thời gian làm việc và thời gian nghỉ hưu có liên quan chặt chẽ không chỉ với nhau, mà còn với các nhiệm vụ cấp bách và khó khăn không kém khác - tăng số lượng công việc với mức lương xứng đáng và công việc có ý nghĩa, đạt được sự cân bằng giữa cuộc sống nghề nghiệp và cá nhân trong thời kỳ hoạt động lao động.

Về nguyên tắc, NLĐ có nhu cầu thực hiện chương trình hưu trí của riêng họ, có tính đến các điều kiện sau: Mức lương hưu và các nguồn thu nhập khác mà họ có thể tin tưởng; tình trạng sức khỏe và năng lực làm việc, khả năng và điều kiện để tiếp tục làm việc, đặc biệt là trên cơ sở bán thời gian, sự sẵn có của công việc tại nhà và tự kinh doanh.

Việc tăng tuổi thọ trung bình, kết hợp với chính sách tăng tuổi nghỉ hưu, đảm bảo cải thiện tình hình của tất cả những người tham gia trong nền kinh tế. Mỗi nhóm tuổi được hưởng lợi từ cuộc sống lâu hơn, một phần sử dụng số năm có thêm để nghỉ ngơi và một phần để làm thêm, tăng thêm thu nhập. Tuy nhiên, đây chưa phải cách tối ưu do năng suất lao động xã hội chưa đủ cao và cơ hội việc làm chưa đủ nhiều.

Định hướng phát triển Bảo hiểm bắt buộc TNLĐ và BNN ở nước taThứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - Lê Tấn Dũng chủ trì Hội thảo khoa học góp ý Đề án nghiên cứu tính khả thi về chính sách Bảo hiểm TNLĐ đối với NLĐ ở khu vực không có hợp đồng lao động. Ảnh: CỤC AN TOÀN LAO ĐỘNG

Định hướng hoàn thiện phương pháp tiếp cận và quản lý RRNN

Hoạt động sản xuất, giống như bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào khác của con người đều liên quan đến sự hiện diện rủi ro đối với chủ thể lao động.

Ở Việt Nam, đánh giá rủi ro để quản lý và xác định mức đóng quỹ bảo hiểm trong hệ thống bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với TNLĐ và BNN tại nơi làm việc chưa có cơ sở khoa học chắc chắn và chưa được thực hiện có nề nếp. Việc ước lượng TNLĐ và BNN thiếu chính xác do công tác thông kê không đầy đủ. Thậm chí, mức độ thống kê được ở Việt Nam thấp hơn 30 - 40 lần so với các nước công nghiệp phát triển.

Đồng thời, không có đánh giá về hậu quả của RRNN trong dài hạn (trong suốt thời gian lao động và sau lao động) đối với tất cả các loại chấn thương, khuyết tật liên quan đến TNLĐ và BNN, cũng như đối với các trường hợp nghỉ hưu sớm. Do đó, trong các ngành công nghiệp khai thác và chế biến, xây dựng và vận tải, theo ước tính của chúng tôi, hậu quả tài chính của RRNN với số lượng lên tới từ 10 đến 20 lần số vụ TNLĐ được thực sự chi trả.

Các phương pháp đánh giá RRNN đang được sử dụng trong nước không chính xác, không hiệu quả vì không chỉ ra được các loại rủi ro, dẫn đến hệ quả là các giải pháp đề ra thiếu hiệu quả. Chưa hình thành được hệ thống công cụ để giám sát môi trường làm việc, sức khỏe và khả năng làm việc của NLĐ.

Các phương pháp tiến bộ được sử dụng ở quy mô hạn chế và số liệu thống kê rời rạc (dữ liệu không đầy đủ và không đáng tin cậy) về RRNN làm phức tạp việc phát triển và áp dụng các cơ chế bảo hiểm hiện đại để bồi thường cho NLĐ và quan trọng nhất là không cho phép ngăn ngừa và giảm thiểu hiệu quả sự hiện diện của RRNN.

Một lý do nữa là ở Việt Nam, việc phát hiện (chẩn đoán) BNN chuyên sâu ở giai đoạn đầu và sử dụng các phương pháp ngăn ngừa BNN hiệu quả, ngăn ngừa suy giảm sức khỏe NLĐ làm việc trong điều kiện độc hại không được sử dụng rộng rãi.

Việc cho về hưu sớm, thực chất dẫn đến vô hiệu hóa trách nhiệm của các đối tượng có quan hệ lao động trong việc đánh giá RRNN, NSDLĐ duy trì các điều kiện làm việc không hợp vệ sinh vì họ không chịu bất kỳ gánh nặng tài chính nào cho việc trả lương hưu sớm.

Việc chuyển đổi từ hệ thống bồi thường cho công việc tại nơi làm việc có điều kiện lao động độc hại, nguy hiểm sang hệ thống giảm thiểu RRNN và bảo hiểm là một nhiệm vụ xã hội, kinh tế, kỹ thuật và tổ chức rất khó khăn nhưng rất hiệu quả.

Việc hình thành một hệ thống quản lý RRNN là cơ chế quan trọng nhất để quản lý điều kiện làm việc và bảo hộ lao động là có thể thông qua việc sử dụng ba tổ chức bảo hiểm: Bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với TNLĐ và BNN tại nơi làm việc; Bảo hiểm lương hưu khuyết tật liên quan đến thương tật lao động và BNN; Bảo hiểm khuyết tật sớm.

Giả định tồn tại các hệ thống đánh giá rủi ro. Đối với các cơ chế bảo hiểm và tổ chức quản lý ATVSLĐ nội dung hoạt động tập trung vào RRNN, do đó, việc tạo ra một cơ sở hạ tầng về phương pháp, công cụ và thống kê duy nhất là rất cần thiết. Ở Việt Nam, vấn đề này chưa được chú ý đúng mức. Tồn tại này cần được khắc phục bằng cách đồng bộ hóa các cơ chế phòng ngừa, bảo hiểm đền bù, chi trả. Ví dụ sự đồng bộ này thể hiện trong Hình 1.2.1.

Định hướng phát triển Bảo hiểm bắt buộc TNLĐ và BNN ở nước ta

Kinh nghiệm thế giới trong việc nâng cao mức độ an toàn lao động là minh chứng cho sự phát triển của các phương pháp kết hợp các thế mạnh của đánh giá rủi ro cho các nhóm lao động nghề nghiệp và đánh giá rủi ro ở cấp độ cá nhân tại vị trí làm việc. Để đạt được mục tiêu này, các phương pháp đánh giá rủi ro cho các nhóm lao động nghề nghiệp được bổ sung bằng cách đánh giá tình trạng sức khỏe của NLĐ và mức độ và thời gian tiếp xúc thực tế của họ với các yếu tố sản xuất nguy hiểm và có hại.

Với mục đích xác định tác động gây hại thực tế của các yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe và khả năng làm việc của NLĐ, điều quan trọng là phải kết hợp thành một phương pháp đánh giá RRNN duy nhất, bao gồm:

1) Đánh giá tình trạng của các yếu tố của môi trường sản xuất và tải trọng tâm sinh lý của quá trình lao động, được thực hiện với sự trợ giúp chứng nhận nơi làm việc an toàn (phương pháp đánh giá rủi ro nhóm nghề nghiệp);

2) Đánh giá các yếu tố rủi ro dựa trên các phương pháp phân tích vệ sinh và phân loại tác động của tất cả các yếu tố rủi ro đối với một nhóm NLĐ chuyên nghiệp (phương pháp đánh giá rủi ro nhóm nghề nghiệp);

3) Đánh giá dữ liệu giám sát sinh học được thực hiện đối với các ngành nghề có mức độ rủi ro cao và cực kỳ cao, kết hợp với phương pháp hóa - sinh học (đánh giá định lượng các chất có hại và các chất chuyển hóa của chúng trong các mô và dịch tiết sinh lý của nhân viên), là sự kết hợp của các phương pháp nhóm nghề nghiệp và cá nhân để đánh giá RRNN;

4) Đánh giá tình trạng sức khỏe và thiệt hại sức khỏe đối với các ngành nghề có mức độ rủi ro cao và rất cao, dựa trên các phương pháp kiểm tra y tế định kỳ và chuyên sâu (kiểm định đánh giá rủi ro cá nhân);

5) Đánh giá khuyết tật sớm cho nhân viên thuộc các nhóm nghề nghiệp có mức độ rủi ro cao và rất cao, được gửi đến ủy ban kiểm tra y tế và xã hội về khuyết tật với chẩn đoán "nghi ngờ mắc BNN" và "BNN", dựa trên các phương pháp kiểm tra y tế định kỳ chuyên sâu (kiểm định đánh giá rủi ro cá nhân).

Nói cách khác, lựa chọn tối ưu nhất để áp dụng các phương pháp trên để đánh giá các yếu tố RRNN là sử dụng đồng thời chúng để đánh giá khách quan hơn các RRNN và tạo ra một cơ sở dữ liệu hạ tầng phát triển, ghi lại các yếu tố rủi ro, theo dõi liều tích lũy và tình trạng sức khỏe và khả năng làm việc của NLĐ (Hình 1.2.1.).

Hình 1.2.1. Yêu cầu về tài nguyên theo thành phần mô hình phương pháp chuyển đổi từ xác định các yếu tố điều kiện lao động sang hệ thống đánh giá RRNN.

Điều này sẽ đòi hỏi một số đổi mới lớn: Tạo ra dịch vụ của các chuyên gia bảo hiểm, phòng ngừa và phục hồi chức năng cho người được bảo hiểm, đảm bảo sự tương tác chặt chẽ của doanh nghiệp bảo hiểm với các trung tâm bệnh lý nghề nghiệp và các cơ sở khoa học và y tế khác, cũng như hệ thống đào tạo và đào tạo lại nhân sự; giới thiệu các phương pháp giảm thiểu rủi ro bảo hiểm, đặc biệt, bằng cách xác NLĐ có dấu hiệu sớm BNN và đưa họ ra khỏi điều kiện làm việc có hại, cũng như điều trị và phục hồi chức năng kịp thời; áp dụng các biện pháp tạo động lực (nhằm tăng lợi ích kinh tế cho người sử dụng lao động) trong việc cải thiện điều kiện làm việc và thực hiện các biện pháp phòng ngừa.

Một hướng triển vọng là bổ sung các phương pháp khắc phục các yếu tố của điều kiện lao động bằng các phương pháp đánh giá tiếp xúc với các yếu tố có hại và phương pháp đánh giá khuyết tật cá nhân (Hình 1.2.2).

Mô hình bảo hiểm bảo vệ NLĐ như Hình 1.2.2 có thể được thực hiện khi các dấu hiệu ban đầu của BNN được xác định chắc chắn. Đây là cách tiếp cận tốt thực hiện các thủ tục pháp lý để chuyển NLĐ sang nơi làm việc có điều kiện lao động an toàn, vệ sinh. Đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cải cách chế độ, chính sách Bảo hiểm bắt buộc TNLĐ và BNN.

Phân tích về xác suất thiệt hại sức khỏe và khả năng làm việc trong quá trình hoạt động lao động là cần thiết nếu các chất gây dị ứng có mặt trong môi trường sản xuất, cũng như các chất có hại có thể tích lũy trong cơ thể con người, tức là có tác dụng tích lũy (kim loại nặng, hợp chất organochlorine, v.v.). Nồng độ tương đối thấp của chúng trong môi trường làm việc không đảm bảo việc giữ gìn sức khỏe của NLĐ.

Phạm vi của các chỉ số và phương pháp được áp dụng để đánh giá rủi ro nghề nghiệp cá nhân bao gồm: Mức độ nguy hiểm của các yếu tố rủi ro có hại của môi trường sản xuất và mức độ tập trung của chúng, khoảng thời gian NLĐ ở lại trong điều kiện làm việc bất lợi, độc hại; nồng độ "liều bên trong" của một chất có hại trong cơ thể con người; xác suất và mức độ nghiêm trọng của thiệt hại sức khỏe; mức độ khuyết tật của NLĐ do điều kiện lao động có hại.

Phương pháp "liều tích lũy riêng lẻ" dựa trên các nghiên cứu hiện đại về nồng độ "liều bên trong" của một chất có hại trong cơ thể con người bằng cách sử dụng theo dõi y tế và sinh học của liều tích lũy và dựa trên việc sử dụng phương pháp kiểm định Hóa - Sinh học.

Theo dõi y tế và sinh học của liều tích lũy cho phép chúng ta ghi lại lượng tiếp xúc tích lũy với yếu tố nguy cơ trong cơ thể con người. Xác định nó dựa trên việc tính toán nồng độ trung bình có trọng số của chất độc hại trong 8 (hoặc 6) giờ, tuần, tháng, năm và trong toàn bộ thời gian lao động của nhân viên, phản ánh cường độ tiếp xúc với yếu tố rủi ro.

Ý nghĩa của chỉ số này là xác định mức độ của yếu tố rủi ro trong quá trình nhân viên tiếp xúc với các chất có hại và độc hại và các yếu tố vật lý nguy hiểm (tiếng ồn, rung động, tiếp xúc với nhiệt độ và bức xạ xuyên thấu) trong toàn bộ thời gian tiếp xúc. Cách tiếp cận này đặc biệt có giá trị, vì nó cho phép ta ghi lại tác động lên cơ thể NLĐ của các chất đặc biệt độc hại và các yếu tố vật lý đặc biệt nguy hiểm. Nói cách khác, mức độ phơi nhiễm cần được xác định có tính đến tần suất tiếp xúc với chất độc hại (nguy hiểm) hoặc yếu tố nguy cơ khác, cũng như có tính đến cường độ tiếp xúc và thời gian tiếp xúc.

Những phương pháp này được sử dụng trong y học lao động nước ta nhưng còn ở quy mô rất hạn chế. Việc sử dụng hạn chế phương pháp liều tích lũy được giải thích là do thiếu quy định khung thủ tục và các quy định cần thiết để giám sát sinh học "liều bên trong" của các chất và yếu tố có hại trong cơ thể con người, cũng như giám sát y tế và sinh học của liều tích lũy cá nhân tiếp xúc với các yếu tố sản xuất nguy hiểm và có hại.

Các dấu hiệu sinh học, chẳng hạn như, ví dụ, nồng độ chì trong máu hoặc các chỉ số về chức năng gan, từ lâu đã được biết đến trong các nghiên cứu về các BNN. Tuy nhiên, việc sử dụng các phương pháp phân tử trong nghiên cứu y sinh đã cho phép sử dụng các dấu vết sinh học để đánh giá ảnh hưởng của một yếu tố gây hại lên cơ quan của con người, xác định độ nhạy cảm và phát hiện sớm BNN.

Các ứng dụng tiềm năng của dấu ấn sinh học trong phân tích BNN là: Đánh giá tác động của yếu tố có hại trong trường hợp chúng có mặt trong môi trường lao động nồng độ thấp; đánh giá tác hại của một chất cụ thể khi có sự hiện diện đồng thời nhiều chất khác trong môi trường sản xuất; đánh giá tác hại kết hợp (tổng số) của các chất ảnh hưởng đến cùng một cơ quan của cơ thể con người.

Việc áp dụng các phương pháp hiện đại nêu trên để đánh giá RRNN ở cấp độ cá nhân là có thể trên cơ sở chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ cấp Nhà nước và hình thành một cơ sở hạ tầng y tế, sinh học và bảo hiểm phù hợp.

Vấn đề này cần được đưa vào cấu trúc sử dụng quỹ Bảo hiểm TNLĐ và BNN nhằm phòng ngừa tác động của các liều tích lũy khi NLĐ tiếp xúc với các yếu tố sản xuất nguy hiểm và có hại và khả năng gây hại cho cuộc sống và sức khỏe của NLĐ, nhất là các chứng bệnh ung thư.

Một vấn đề phức tạp khi sử dụng phương pháp "liều tích lũy riêng lẻ" là phải có thông tin chi tiết và rất chi tiết về thời gian và mức độ tiếp xúc với các yếu tố có hại. Điều này, trước mắt, gây khó khăn cho việc sử dụng rộng rãi phương pháp.

Việc sử dụng ở nước ta phương pháp tiếp xúc với liều lượng tích lũy riêng lẻ với các yếu tố sản xuất nguy hiểm và có hại trên cơ thể con người phần lớn bị hạn chế do thiếu số liệu thống kê y tế và sinh học theo thời gian thực.

Ngoài ra, còn có các chất tác dụng nhanh và một số loại bức xạ xuyên thấu, mà nồng độ cực đại trong một thời gian rất ngắn có thể gây nguy hiểm nghiêm trọng cho sức khỏe và tính mạng con người. Ví dụ, nồng độ thấp của một số chất cũng có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng. Việc tiếp xúc ngắn hạn với một số hóa chất cấp tính cũng cực kỳ nguy hiểm. Chẳng hạn, HydroClorua (HCl), ngay cả khi có thiết bị bảo vệ cá nhân, có thể gây ra những thay đổi không thể đảo ngược trong mô phổi; hydro sunfua - gây tình trạng ngất xỉu sâu; hơi oxit cadmium – gây phù phổi, v.v.

Đối với một số chất độc mạnh, giá trị nồng độ tối đa cho phép dùng để đánh giá và kiểm soát các mối nguy gây tổn thương được định nghĩa là tiếp xúc cực đoan với rủi ro, không được vượt quá dù trường hợp nào đi nữa.

Ví dụ, đối với các yếu tố rủi ro Hội nghị vệ sinh công nghiệp nhà nước Hoa Kỳ (ACGIH) đã thông qua từ năm 1975 một giới hạn được gọi là: Giới hạn phơi nhiễm ngắn hạn (STEL), được định nghĩa là mức độ phơi nhiễm tối đa của RRNN mà NLĐ có thể tiếp xúc không quá 15 phút mà không gặp phải: (1) Kích thích; 2) Thay đổi mô mãn tính hoặc không thể đảo ngược; 3) Trạng thái gây mê, mạnh đến mức một người tiếp xúc với nguy cơ tai nạn và mất khả năng tự bảo vệ, sức khỏe của anh ta bị tổn hại đáng kể và khả năng làm việc của anh ta bị giảm.

Để đánh giá mức độ RRNN cao và nghiêm trọng, nên sử dụng số liệu thống kê về tử vong do BNN và các loại bệnh liên quan tới nghề nghiệp. Các số liệu này đã được sử dụng trong nhiều thập kỷ ở Canada, Anh và Hoa Kỳ. Các loại bệnh đặc biệt nguy hiểm ở các quốc gia này bao gồm viêm phổi và một loại ung thư như u trung biểu mô màng phổi ác tính, cũng như bệnh bạch cầu (khi tiếp xúc với điện trường và từ trường).

Đồng thời, đối với các yếu tố nguy cơ đặc biệt nguy hiểm, phơi nhiễm các yếu tố nguy cơ được thiết lập - liều cho phép dưới dạng "giá trị nồng độ tối đa" và thời gian phơi nhiễm, phải được ghi lại và theo dõi trong một thời gian nhất định (ngày, tuần, tháng và năm).

Phương pháp này được xây dựng bằng cách đưa ra dự báo về xác suất phát triển BNN và mức độ của nó, trên cơ sở các chỉ số định lượng về bảo vệ thời gian được tính toán: Khoảng thời gian làm việc an toàn trong đó mức độ phơi nhiễm (tổng mức độ phơi nhiễm với mức độ rủi ro và thời gian tiếp xúc) là nhỏ, chưa nguy hiểm và trong giới hạn cho phép; khoảng thời gian tới hạn, trong đó thời gian tiếp xúc vượt quá liều cho phép và có thể dẫn đến suy giảm sức khỏe; giai đoạn nguy hiểm trong đó trải nghiệm tiếp xúc với xác suất cao có thể gây ra BNN hoặc ngộ độc cấp tính.

Do đó, điểm mạnh của các phương pháp được sử dụng rộng rãi ở các nước công nghiệp phát triển là việc sử dụng nguyên tắc "hiệu ứng liều lượng" (tiếp xúc với các yếu tố rủi ro) đối với các hóa chất đặc biệt nguy hiểm. Đánh giá phơi nhiễm hiệu ứng liều lượng về nguy cơ nghề nghiệp cho phép đánh giá nguy cơ thiệt hại sức khỏe và mức độ nghiêm trọng của hậu quả của khuyết tật của người lao động do tiếp xúc với yếu tố nguy cơ với xác suất cao, có tính đến liều phơi nhiễm và thời gian phơi nhiễm.

Vào những năm 1990, Viện Nghiên cứu y học nghề nghiệp (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Y khoa Nga) đã tiến hành khái quát hóa các công trình nghiên cứu về đánh giá rủi ro dưới ảnh hưởng của vi khí hậu nóng và đưa ra các biện pháp bảo vệ. Các tiêu chí đã được xác định, bao gồm lão hóa sinh học tăng tốc, tăng nguy cơ mắc các bệnh của hệ tuần hoàn, cũng như nguy cơ tử vong do các bệnh về hệ tuần hoàn, cơ quan hô hấp, u ác tính.

Dự báo RRNN dưới ảnh hưởng của yếu tố này không chỉ có thể phát triển các khuyến nghị cho lựa chọn y tế và kiểm tra y tế định kỳ, mà còn để biện minh cho tổng thời gian cho phép của tải nhiệt mỗi ca làm việc, giới hạn kinh nghiệm làm việc và nghỉ hưu sớm hơn với mức độ rủi ro nghề nghiệp cao (Hình 1.2.2).

Yêu cầu về thời gian nghỉ ngơi khi làm việc trong điều kiện khí hậu nóng:

Loại ĐKLĐ

Tổng thời gian cho phép của tải nhiệt trên mỗi ca lao động (đơn vị: Giờ)

Kinh nghiệm về thời gian làm việc được đề xuất (đơn vị: Năm)

Loại 1 và 2

8

Không giới hạn thời gian

Loại 3

7

35

Loại 4

5

30

Loại 5

3

25

Loại 6

1

20

Từ những điều trên, về mặt lý thuyết, vấn đề "bảo vệ bằng thời gian" (hạn chế thời gian tiếp xúc với một yếu tố có hại cho NLĐ) phần lớn được giải quyết từ quan điểm y tế và sinh học. Tuy nhiên, các hành động pháp lý và tổ chức để đưa các phương pháp này vào thực tiễn nước ta vẫn chưa được giải quyết.

Về vấn đề này, cần xác định quyền và nghĩa vụ của NLĐ, người sử dụng lao động, tổ chức y tế, ...

Định hướng phát triển Bảo hiểm bắt buộc TNLĐ và BNN ở nước ta

ĐỊNH hướng phát triển mô hình Bảo hiểm TNLĐ và BNN

Chúng ta thấy trên thế giới có ba mô hình bảo hiểm: Mô hình nhà nước, mô hình công - tư hợp danh, mô hình bảo hiểm dựa trên trách nhiệm của người sử dụng lao động. Bất kỳ mô hình bảo hiểm RRNN nào cũng xác định: rủi ro về phạm vi bảo hiểm: Thủ tục quy kết tai nạn, bệnh tật của NLĐ là sự kiện được bảo hiểm; phân loại RRNN.

Về đội ngũ người được bảo hiểm: Chỉ những NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động (cái gọi là cách tiếp cận truyền thống để xác định tình trạng của người được bảo hiểm) hoặc tất cả các loại nhân viên, bao gồm tự kinh doanh, sinh viên, cá nhân doanh nhân (cái gọi là cách tiếp cận rộng rãi).

Thủ tục đóng phí bảo hiểm: Đối tượng áp dụng nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm (chỉ người sử dụng lao động; người sử dụng lao động và NLĐ cùng một lúc); thủ tục xác định và số tiền biểu phí bảo hiểm; ưu đãi kinh tế để giảm thuế bảo hiểm.

Thành phần, hình thức và số tiền bồi thường cho NLĐ bị thương và các thành viên trong gia đình họ.

Phương án chi trả quyền lợi bồi thường: Thanh toán định kỳ, một lần hoặc cả hai.

Việt Nam đang thực thi mô hình nhà nước về Bảo hiểm TNLĐ, BNN. Chúng ta có định hướng đa dạng hóa mô hình bảo hiểm hay không? Theo ý kiến của nhóm nghiên cứu, cùng với chủ trương xã hội hóa nhiều lĩnh vực dịch vụ công thì bổ sung thêm mô hình Bảo hiểm tư nhân hạn chế là định hướng tốt trong giai đoạn phát triển công nghiệp sau 2030.

Theo mô hình bảo hiểm nhà nước, các cơ quan hành chính, giám sát và tài chính tích lũy phí bảo hiểm và bồi thường cho nạn nhân được xác định. Thông thường, tất cả các chức năng này được giao cho quỹ bảo hiểm ngoài ngân sách nhà nước.

Tùy thuộc vào sự tồn tại của cơ chế bảo hiểm cho các khoản thanh toán xã hội, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đang thu phí bảo hiểm và quy định các chế độ đền bù, trợ cấp cho NLĐ bị TNLĐ và BNN. Sự ổn định tài chính của hệ thống bảo hiểm đóng vai trò quan trọng, tuy nhiên, hiệu quả của bảo hiểm không ở số dư bảo hiểm cao mà chính là ở số dư thấp, đồng thời mức chi trả thỏa đáng theo thiệt hại và chi trả cao cho các giải pháp quản lý rủi ro và phòng ngừa TNLĐ và BNN. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm đề ra các quy định pháp luật nhằm cải thiện và tăng hiệu quả của cơ chế hoạt động của quỹ bảo hiểm, bao gồm mọi quy mô và thủ tục đền bù, hỗ trợ TNLĐ và BNN cũng như quy mô và thủ tục thực hiện các hoạt động phòng ngừa.

Định hướng phát triển Bảo hiểm bắt buộc TNLĐ và BNN ở nước ta

Hình 1.3.2. Phân bố ngân sách trong hệ thống chi trả cho RRNN ở một số nước phát triển [6, 8].

Nhóm chi quỹ

Đức

Anh

Mỹ

Đan Mạch

Phần Lan

Chi trả cho bồi thường, %

0,54

0,32

0,45

0,45

0,39

Chi trả cho phục hồi và phòng ngừa, %

0,46

0,68

0,55

0,55

0,61

Theo Hình 1.3.1, có thể thấy vai trò chủ yếu của người sử dụng lao động ở hầu hết các quốc gia trong việc tài trợ cho các quỹ Bảo hiểm RRNN. Trong khi, theo quy định, tỷ lệ đóng góp được xác định tùy thuộc vào mức độ rủi ro.

Dựa trên kinh nghiệm Bảo hiểm RRNN ở nước ngoài và sự phát triển của nó, chúng tôi thấy có hai xu hướng chính trong lĩnh vực này:

Một là, tăng cường các biện pháp phòng ngừa trong hệ thống BHXH bắt buộc RRNN

Bảo hiểm RRNN kết hợp ba yếu tố chính:

  • Tiền bồi thường cho người bị thương hoặc gia đình của NLĐ đã chết;
  • Chi phí cho việc phục hồi chức năng của NLĐ;
  • Chi phí phòng ngừa tai nạn và phòng chống BNN.

Như có thể thấy từ bảng 1.3.2, ở các nước phát triển, phần lớn hoặc phần đáng kể trong tổng chi tiêu bảo hiểm là chi phí phục hồi chức năng cho nạn nhân và phòng ngừa tai nạn và BNN, trong khi ở VN, cho đến nay các khoản thanh toán bồi thường vẫn còn phổ biến trong cơ cấu chi phí.

Hai là, phát triển hệ thống Bảo hiểm tư nhân tự nguyện đối với rủi ro nghề nghiệp (RRNN)

Có một số dấu hiệu cho thấy các hệ thống tài trợ RRNN ở các nền kinh tế tiên tiến đang trải qua một sự thay đổi dần dần theo hướng tư nhân hóa và sự tinh chỉnh ngày càng tăng suất đóng quỹ bảo hiểm công cộng hoặc tư nhân. Theo một số nghiên cứu, hệ thống Bảo hiểm RRNN tư nhân hiệu quả hơn bảo hiểm nhà nước (!).

Như vậy, chúng ta hình dung rằng đến 2035, nước ta một mặt, duy trì hệ thống nhà nước về bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với TNLĐ, BNN và cho phép bảo hiểm tư nhân hoạt động với một số chức năng hạn chế.

Định hướng phát triển Bảo hiểm bắt buộc TNLĐ và BNN ở nước ta

Đoàn viên, NLĐ luôn nhận được sự chăm lo của tổ chức Công đoàn. Ảnh: CĐVN

Tài liệu tham khảo:

1. Đỗ Trần Hải và CTV, Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá tổng quát rủi ro sức khỏe nghề nghiệp, Mã số: 217/01/CTPH/TLĐ-BKHCN, Báo cáo tổng kết toàn diện, Hà Nội, 2019;

2. Đỗ Trần Hải, Nguyễn Thắng Lợi, Phạm Quốc Quân, Hướng dẫn chung Phương pháp xác định các mối nguy hiểm và đánh giá rủi ro an toàn và sức khỏe nghề nghiệp. Hà Nội, 2021.

3. Đỗ Trần Hải và CTV, Báo cáo: Cơ sở khoa học và thực tiễn các mô hình Bảo hiểm TNLĐ và BNN ở các nước tiên tiến, CV.5.1.1. Báo cáo kết quả n/c 2022 của đề tài;

4. Nghị định Chính Phủ số 58/2020/NĐ-CP ngày 27/5/2020 Quy định mức đóng BHXH bắt buộc vào quỹ Bảo hiểm TNLĐ, BNN;

5. Thông tư Số: 28/2021/TT-BLĐTBXH Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật An toàn, vệ sinh lao động về chế độ đối với NLĐ bị TNLĐ, BNN;

6. Роик В. Д. Основы социального страхования: организация, экономика и право: учеб. / В.Д. Роик. — М.: РАГС, 2007. — 456 с.;

7. Роик, В. Д. Страхование от несчастных случаев на производстве и профессиональных заболеваний-Экономика, Финансы и Право, Казань 2014. – 576 с.;

8. Управление рисками в сфере труда в новых условиях: доклад МОТ к Всемирному дню охраны труда в 2010 г. — Москва, 2010.

Bài viết: VSTT. TSKH Phạm Quốc Quân, TS. Đỗ Trần Hải và Cộng sự

VSTT. TSKH Phạm Quốc Quân, TS. Đỗ Trần Hải và Cộng sự