Với nguyên lý mọi thứ đều là đầu vào đối với thứ khác, kinh tế tuần hoàn (KTTH) mang lại các lợi ích cơ bản như: tiết kiệm nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển kinh tế và gia tăng lợi ích xã hội.
* * *
Khái niệm KTTH được sử dụng đầu tiên bởi Pearce và Turner từ năm 1990 (trong cuốn sách “Kinh tế Tài nguyên và Môi trường”). Nó được dùng để chỉ mô hình kinh tế mới dựa trên nguyên lý cơ bản “mọi thứ đều là đầu vào đối với thứ khác”, hoàn toàn không giống với cách nhìn của nền kinh tế tuyến tính truyền thống.
Từ việc tập hợp khoảng 114 định nghĩa khác nhau về KTTH, Kirchherr, Reike & Hekkert cho thấy, xuất phát từ góc độ kinh tế khác nhau dẫn đến có sự khác nhau trong định nghĩa về KTTH.
“KTTH là một hệ thống công nghiệp có tính tái tạo và khôi phục theo chủ định và có thiết kế. Nó chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo, loại bỏ việc sử dụng các hóa chất độc hại và chất thải gây suy giảm khả năng tái sử dụng thông qua thiết kế ưu việt của vật liệu, sản phẩm, hệ thống và trong phạm vi này, là các mô hình kinh doanh”. Hay nói một cách đơn giản KTTH là biến rác thải đầu ra của ngành này thành nguồn tài nguyên đầu vào của ngành khác hay tuần hoàn trong nội tại bản thân của một doanh nghiệp. KTTH góp phần gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, giảm khai thác tài nguyên, giảm chi phí xử lý chất thải, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Từ góc độ nền kinh tế, “KTTH có thể được hiểu là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ đặt ra mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất và loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường”. Sự tuần hoàn thể hiện trong tái sử dụng, thông qua chia sẻ, sửa chữa, tân trang, tái chế, tái sản xuất, … tạo lập các vòng lặp khép kín, nhằm giảm tối thiểu nguyên liệu đầu vào, lượng phế thải, khí thải và độ ô nhiễm.
Liên minh Châu Âu định nghĩa “KTTH là nền kinh tế mà giá trị của sản phẩm, nguyên vật liệu, tài nguyên được duy trì lâu nhất có thể và đồng thời giảm thiểu việc phát thải”. Theo nguyên lý đó, nền kinh tế càng bỏ đi ít sản phẩm thì sẽ càng ít tài nguyên thiên nhiên bị khai thác để sản xuất sản phẩm mới; từ đó, môi trường sẽ chịu càng ít tác động tiêu cực từ con người.
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường (2019), “KTTH là nền kinh tế tối đa hóa các giá trị của vật liệu đầu vào và giảm thiểu chất thải thông qua việc thay đổi cách mà hàng hóa, dịch vụ được thiết kế, sản xuất và sử dụng theo hướng chất thải của quy trình này có thể trở thành nguyên liệu đầu vào cho quy trình khác và các sản phẩm có thể được sửa chữa, tái chế, tái sử dụng thay vì thải bỏ. Từ đó, kéo dài tuổi thọ vật chất, chuyển chất thải từ điểm cuối cùng của hệ thống trở lại điểm đầu, giảm thiểu các tác động tiêu cực tới môi trường”. Cũng có thể hiểu, KTTH là “giữ cho dòng vật chất được sử dụng lâu nhất, khôi phục và tái tạo các sản phẩm, vật liệu ở cuối mỗi chu kỳ sản xuất hay tiêu dùng”.
Từ những quan niệm trên, KTTH được hiểu là một chu trình vận hành khép kín, sản phẩm đầu ra của quy trình này (chưa phải là sản phẩm tiêu dùng cuối cùng), hoặc phế thải có thể quay trở lại, trở thành nguyên liệu sản xuất, đầu vào cho một quy trình khác, từ đó tiết kiệm tài nguyên, giảm tác động tiêu cực đến môi trường, bảo vệ hệ sinh thái và sức khỏe con người.
KTTH ra đời như một mô hình thay thế cho phương thức kinh tế truyền thống với mục đích thúc đẩy tiêu thụ tài nguyên bền vững hơn. Trong nền kinh tế tuần hoàn, các quy trình sản xuất được tạo thành các vòng khép kín, trong đó vật liệu, thành phần và sản phẩm được tái sử dụng, tái chế hoặc phục hồi khi hết thời gian sử dụng mà không trở thành chất thải. Thông qua việc tận dụng tối đa các nguồn lực, KTTH mang lại các lợi ích cơ bản như: tiết kiệm nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển kinh tế và gia tăng lợi ích xã hội.
Toàn bộ các hoạt động từ thiết kế, sản xuất đến cung cấp dịch vụ đều hướng tới việc tái sử dụng vật chất và loại bỏ các tác động tiêu cực đến môi trường. KTTH có thể diễn ra ở các cấp độ của nền kinh tế tương ứng với các mô hình trong từng doanh nghiệp, giữa các doanh nghiệp trong mạng lưới doanh nghiệp và rộng hơn là toàn xã hội, hướng tới sự phát triển của các doanh nghiệp trong lĩnh vực phục hồi tài nguyên, sản xuất sạch, …. triển khai kinh tế tuần hoàn mở ra các cơ hội mới cho cả doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Nguyên tắc, nội hàm của KTTH
Trong mô hình KTTH, các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường. Đây là một chiến lược phát triển bền vững đang được đề xuất để giải quyết các vấn đề cấp bách của suy thoái môi trường và khan hiếm tài nguyên, trong đó tài nguyên đầu vào, chất thải, khí thải và năng lượng được tối thiểu hóa ngay từ trong quy trình sản xuất và tiêu dùng từ thiết kế, bảo trì, sửa chữa, tái sử dụng, tái sản xuất, tân trang và tái chế lâu dài dựa trên động lực kinh tế, hướng đến một mô hình kinh tế không phát thải. Tổ chức Ellen Macarthur đã xác định ba nguyên tắc chính của một nền KTTH đó là:
(1) Giảm và loại bỏ thải và ô nhiễm;
(2) Kéo dài thời hạn sử dụng của sản phẩm và nguyên vật liệu;
(3) Tái tạo hệ thống tự nhiên.
Như vậy, quá trình vận hành của nền KTTH sẽ không có chất thải ra môi trường, do đó giải quyết được bài toán xử lý mối quan hệ giữa “kinh tế” và “môi trường”. KTTH thực hiện được hai nội dung:
(1) Hạn chế tối đa khai thác nguyên liệu thô từ môi trường tự nhiên và duy trì hệ sinh thái;
(2) Không còn đưa chất thải ra môi trường gây ô nhiễm và suy thoái môi trường, duy trì chất lượng môi trường.
KTTH có 3 nội hàm cơ bản sau:
Thứ nhất, bảo tồn và phát triển vốn tự nhiên thông qua việc kiểm soát hợp lý các tài nguyên không thể phục hồi và cân đối với các tài nguyên có thể phục hồi, các nguồn năng lượng tái tạo;
Thứ hai, tối ưu hóa lợi tức của tài nguyên bằng cách tuần hoàn các sản phẩm và vật liệu nhiều nhất có thể trong các chu trình kĩ thuật và sinh học;
Thứ ba, nâng cao hiệu suất chung của toàn hệ thống bằng cách chỉ rõ và thiết kế các ngoại ứng tiêu cực (thiết kế chất thải, thiết kế ô nhiễm).
Những nội hàm này giúp KTTH phá vỡ được mối liên hệ thường thấy giữa phát triển kinh tế và các ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường. Không chỉ là tuần hoàn vật liệu mà còn là giảm thiểu việc sử dụng các vật liệu khó tái chế, kinh tế tuần hoàn không phải là xử lý chất thải, ngược lại coi chất thải là tài nguyên bị đặt nhầm chỗ, hoặc bị đánh giá chưa đúng giá trị. Theo đó, không chỉ giảm phụ thuộc vào tài nguyên và hạn chế phát thải, các mô KTTH vẫn đem lại lợi ích rất lớn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Lợi ích triển khai KTTH
KTTH dựa trên nguyên lý tài nguyên thiên nhiên là nguyên liệu thô đưa vào hệ thống kinh tế, trải qua quá trình sản xuất và tiêu dùng, các nguyên vật liệu thừa và chất thải được thu hồi quay trở lại đầu vào cho hệ thống kinh tế dưới dạng chất thải là đầu vào của hệ thống kinh tế. Cách tiếp cận này tương phản với mô hình kinh tế tuyến tính đang được phổ biến rộng rãi. Với nền kinh tế tuyến tính, nguyên liệu thô được khai thác từ môi trường tự nhiên làm đầu vào cho hệ thống kinh tế và kết thúc chu trình kinh tế là thải loại ra môi trường tự nhiên, dẫn đến gia tăng chất thải, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và gây ô nhiễm, suy thoái môi trường.
Phát triển KTTH trong doanh nghiệp mang lại nhiều lợi ích như: tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển kinh tế, đem lại lợi ích cho xã hội. KTTH mang lại lợi ích trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, cho cả doanh nghiệp và xã hội.
- Đối với quốc gia: Phát triển KTTH là thể hiện trách nhiệm của quốc gia trong giải quyết những thách thức toàn cầu do ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, đồng thời nâng cao năng lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế. KTTH giúp tận dụng được nguồn nguyên vật liệu đã qua sử dụng thay vì tiêu tốn chi phí xử lý; giảm thiểu khai thác tài nguyên thiên nhiên, tận dụng tối đa giá trị tài nguyên; hạn chế tối đa chất thải, khí thải ra môi trường.
- Đối với xã hội: KTTH giúp giảm chi phí xã hội trong quản lý, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; tạo ra thị trường mới, cơ hội việc làm mới, nâng cao sức khỏe người dân, ... Lợi ích kinh tế được thể hiện ở việc tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu. Lợi ích về môi trường được thể hiện ở việc giảm phát thải khí cacbon, giảm tiêu thu vật liệu thô, tăng năng suất, …
- Đối với doanh nghiệp: KTTH mang lại chi phí đầu vào thấp, vượt qua sự biến động giá và các nguy cơ trong cung cấp vật liệu thô, … Kinh tế tuần hoàn góp phần giảm rủi ro về khủng hoảng thừa sản phẩm, và sự khan hiếm tài nguyên; tạo động lực để đầu tư, đổi mới công nghệ, giảm chi phí sản xuất, tăng chuỗi cung ứng, ... Lợi ích với người tiêu dùng được thể hiện trong việc tiếp cận trực tiếp với hàng hóa và dịch vụ tốt hơn, tiện lợi hơn và ít chi phí hơn.
Việc chuyển đổi sang nền KTTH không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn thúc đẩy phát triển khoa học, cắt giảm khí thải CO2, đảm bảo sức khỏe và an toàn. Trên phạm vi toàn thế giới, áp dụng kinh tế tuần hoàn mang lại lợi ích kinh tế 4,5 nghìn tỷ USD tới năm 2030 (Lacy, P., & Rutqvist, J, 2015). Riêng ở khu vực châu Âu, việc áp dụng mô hình KTTH không chỉ tạo tác động tích cực cho môi trường và xã hội mà còn giúp tạo ra giá trị kinh tế lên đến 1,8 nghìn tỷ Euro vào năm 2030 (McKinsey & Co). KTTH có quy mô và mức độ tuần hoàn khác nhau, tùy thuộc vào ngành sản xuất, kinh doanh dịch vụ của từng doanh nghiệp. Song, một số ngành được đánh giá là có cơ hội lớn hơn trong việc thúc đẩy KTTH như: lương thực và nông nghiệp, thời trang và dệt may, xây dựng và vật liệu xây dựng, hệ thống năng lượng và carbon, hóa chất, điện tử và công nghệ cao.
Thách thức triển khai KTTH
Bên cạnh lợi ích của KTTH là giảm việc sử dụng các nguồn tài nguyên không thể tái tạo, giảm lượng khí thải carbon, mục tiêu không chất thải, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng thì doanh nghiệp gặp không ít những thách thức, rào cản đối với sự phát triển của mô hình KTTH, cụ thể như khó khăn về: thể chế, thiếu nguồn tài chính, thiếu công nghệ, thiếu nguồn chất lượng kỹ thuật cao, thiếu sự quan tâm của người tiêu dùng về môi trường, thiếu đánh giá chuyên gia trong quản lý môi trường và thiếu sự cam kết triển khai thực hiện của các tổ chức, lãnh đạo.
ThS. ĐỖ VIỆT ĐỨC, Ban Quan hệ Lao động, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam